Đề xuất hàng hóa XK tại chỗ được áp dụng thuế suất như hàng hóa XK

(HQ Online) - Nhằm đảm bảo tính pháp lý, minh bạch và sự ổn định của chính sách, Bộ Tư pháp đề xuất nghiên cứu để bổ sung vào Luật Thuế XK, thuế NK quy định áp dụng thuế suất thuế XK đối với hàng hóa XK tại chỗ như đối với hàng hóa XK.
Ống đồng của máy điều hòa nhiệt độ XK theo hình thức tại chỗ phải kê khai, nộp thuế
Cơ sở nào để xác định hàng hóa XK được sản xuất từ nguồn hàng NK tại chỗ?
Hàng hóa cho DN chế xuất thuê tài chính sẽ phải thực hiện thủ tục hải quan như thế nào?

Dự thảo chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2024, điều chỉnh năm 2023 đang được Bộ Tư pháp tổng hợp lấy ý kiến. Một trong những nội dung được đề cập trong dự thảo này nội dung sửa đổi, bổ sung vào Luật Thuế XK, thuế NK.

Theo đánh giá của Bộ Tư pháp, Luật Thuế XK, thuế NK được ban hành đã có tác động tích cực, nhất là trong việc đảm bảo nguồn thu cho NSNN, tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, thúc đẩy XK, tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế và tạo thuận lợi cho người dân và DN trong hoạt động XNK.

Trước xu thế phát triển mạnh mẽ của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đã trở thành thành viên của nhiều diễn đàn quốc tế và tham gia nhiều Hiệp định thương mại tự do (Hiệp định FTA), đặc biệt là các Hiệp định FTA thế hệ mới và các hoạt động XNK cũng trở nên phức tạp, đa dạng hơn đòi hỏi cần phải có những điều chỉnh của hệ thống chính sách pháp luật trong nước, trong đó có chính sách thuế XNK.

Hoạt động sản xuất tại Công ty may Ninh Bình. Ảnh: H.Nụ
Hoạt động sản xuất tại Công ty may Ninh Bình. Ảnh: H.Nụ

Bộ Tư pháp cho rằng, Luật Thuế XK, thuế NK hiện hành đã quy định tương đối đầy đủ các nội dung liên quan phương pháp tính thuế (phương pháp tính thuế theo tỷ lệ phần trăm, theo số tiền thuế tuyệt đối, thuế hỗn hợp); các loại thuế suất thuế NK tùy theo cam kết, thỏa thuận song phương, đa phương giữa nước ta với các nước/khu vực/tổ chức quốc tế (thuế suất ưu đãi, thuế suất ưu đãi đặc biệt, thuế suất thông thường). Qua đó, đảm bảo chính sách thuế XK, thuế NK của nước ta phù hợp với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.

Tuy nhiên, qua rà soát, Luật Thuế XK, thuế NK hiện chưa quy định về thuế suất thuế XK, thuế NK đối với hàng hóa XNK tại chỗ. Đối với hàng hóa XNK tại chỗ, hiện nay, theo quy định của pháp luật quản lý ngoại thương, hàng hoá NK tại chỗ (trừ hàng hóa NK tại chỗ từ khu phi thuế quan) không được cấp giấy chứng nhận xuất xứ.

Bộ Tư pháp cho hay, để việc thực hiện tính thuế đối với hàng hóa XNK tại chỗ được thống nhất, trên cơ sở nguyên tắc đối xử tối huệ quốc và đảm bảo quyền lợi cho người nộp thuế, căn cứ thẩm quyền được giao tại Luật Thuế XK, thuế NK, tại Nghị định 18/2021/NĐ-CP Chính phủ đã quy định cụ thể về việc áp dụng thuế suất đối với hàng hóa XNK tại chỗ.

Theo đó, quá trình thực hiện thời gian qua không có vướng mắc, vì vậy, cần thiết rà soát, nghiên cứu, bổ sung quy định về áp dụng thuế suất đối với hàng hóa XNK trong các trường hợp này vào quá trình sửa đổi Luật Thuế XK, thuế NK để đảm bảo tính pháp lý, minh bạch và sự ổn định của chính sách.

Bộ Tư pháp đề nghị cơ quan được giao đầu mối soạn thảo nghiên cứu để bổ sung vào Luật Thuế XK, thuế NK quy định áp dụng thuế suất thuế XK đối với hàng hóa XK tại chỗ như đối với hàng hóa XK; bổ sung quy định: áp dụng thuế suất thuế NK MFN đối với trường hợp hàng hóa sản xuất, gia công, tái chế, lắp ráp tại khu phi thuế quan không đáp ứng các điều kiện để hưởng thuế suất FTA NK tại chỗ từ khu phi thuế quan vào thị trường trong nước; áp dụng mức thuế suất thuế NK FTA đối với hàng hóa sản xuất, gia công, tái chế, lắp ráp tại khu phi thuế quan đáp ứng các điều kiện để hưởng thuế suất thuế FTA NK tại chỗ từ khu phi thuế quan vào thị trường trong nước.

Cũng theo đánh giá của Bộ Tư pháp, quá trình thực hiện Luật cũng đã phát sinh một số điểm hạn chế, bất cập cần được nghiên cứu bổ sung, hoàn thiện cho phù hợp với thực tiễn, tháo gỡ vướng mắc và tạo thuận lợi hơn cho sản xuất kinh doanh, đảm bảo tính minh bạch. Cùng với đó, kể từ khi Luật Thuế XK, thuế NK có hiệu lực, pháp luật về thuế, hải quan, đầu tư, quản lý ngoại thương và các văn bản nội luật hóa các Điều ước quốc tế cũng đã có sự thay đổi, đặc biệt là các quy định liên quan đến Luật Đầu tư năm 2020, Luật Quản lý ngoại thương năm 2017, Luật Quản lý thuế năm 2019. Nếu Luật Thuế XK, thuế NK được bổ sung, sửa đổi không chỉ tạo sự thống nhất giữa các văn bản hướng dẫn, đảm bảo quyền lợi cho người nộp thuế mà còn đảm bảo căn cứ pháp lý trong quá trình thực hiện chính sách thuế đối với hàng hóa XNK tại chỗ.

Tại Điều 5 Luật Thuế XK, thuế NK quy định về căn cứ tính thuế XK, thuế NK đối với hàng hóa áp dụng phương pháp tính thuế theo tỷ lệ phần trăm như sau: “Số tiền thuế XK, thuế NK được xác định căn cứ vào trị giá tính thuế và thuế suất theo tỷ lệ phần trăm (%) của từng mặt hàng tại thời điểm tính thuế.

Thuế suất đối với hàng hóa XK được quy định cụ thể cho từng mặt hàng tại biểu thuế XK. Trường hợp hàng hóa XK sang nước, nhóm nước hoặc vùng lãnh thổ có thỏa thuận ưu đãi về thuế XK trong quan hệ thương mại với Việt Nam thì thực hiện theo các thỏa thuận này.

Thuế suất đối với hàng hóa NK gồm thuế suất ưu đãi, thuế suất ưu đãi đặc biệt, thuế suất thông thường và được áp dụng như sau: Thuế suất ưu đãi áp dụng đối với hàng hóa NK có xuất xứ từ nước, nhóm nước hoặc vùng lãnh thổ thực hiện đối xử tối huệ quốc trong quan hệ thương mại với Việt Nam; hàng hóa từ khu phi thuế quan NK vào thị trường trong nước đáp ứng điều kiện xuất xứ từ nước, nhóm nước hoặc vùng lãnh thổ thực hiện đối xử tối huệ quốc trong quan hệ thương mại với Việt Nam.

Thuế suất ưu đãi đặc biệt áp dụng đối với hàng hóa NK có xuất xứ từ nước, nhóm nước hoặc vùng lãnh thổ có thỏa thuận ưu đãi đặc biệt về thuế NK trong quan hệ thương mại với Việt Nam; hàng hóa từ khu phi thuế quan NK vào thị trường trong nước đáp ứng điều kiện xuất xứ từ nước, nhóm nước hoặc vùng lãnh thổ có thỏa thuận ưu đãi đặc biệt về thuế NK trong quan hệ thương mại với Việt Nam.

Thuế suất thông thường áp dụng đối với hàng hóa NK không thuộc các trường hợp quy định tại điểm a và điểm b Khoản này. Thuế suất thông thường được quy định bằng 150% thuế suất ưu đãi của từng mặt hàng tương ứng. Trường hợp mức thuế suất ưu đãi bằng 0%, Thủ tướng Chính phủ căn cứ quy định tại Điều 10 của Luật này để quyết định việc áp dụng mức thuế suất thông thường”.

Ý kiến bạn đọc

Đọc tiếp

Đọc nhiều