Doanh nghiệp cho thuê tài chính phải kê khai, nộp thuế khi chuyển giao tài sản
Công ty TNHH HANARO TNS Việt Nam nêu vướng mắc liên quan đến chính sách thuế, thủ tục hải quan khi chuyển giao tài sản của công ty cho thuê tài chính.
Để doanh nghiệp hiểu hơn các quy định về chính sách thuế, theo Tổng cục Hải quan, khoản 2 Điều 2 Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu quy định đối tượng chịu thuế là hàng hóa xuất khẩu từ thị trường trong nước vào khu phi thuế quan, hàng hóa nhập khẩu từ khu phi thuế quan vào thị trường trong nước.
Điều 3 Luật Thuế giá trị gia tăng cũng quy định về đối tượng chịu thuế là hàng hóa, dịch vụ sử dụng cho sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng ở Việt Nam là đối tượng chịu thuế giá trị gia tăng, trừ các đối tượng quy định tại Điều 5 của Luật này.
CBCC Hải quan Quảng Ninh kiểm tra máy móc NK- Ảnh tư liệu. Ảnh: T.Trang. |
Khoản 12 Điều 1 Nghị định 59/2018/NĐ-CP quy định về khai tờ khai thay đổi mục dích sử dụng: “Đối với hàng hóa xuất nhập khẩu thuộc đối tượng không chịu thuế xuất nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế giá trị gia tăng, thuế bảo vệ môi trường hoặc miễn thuế hoặc áp dụng thuế suất mức thuế tuyệt đối theo hạn ngạch thuế quan và đã được giải phóng hàng hoặc thông quan nhưng sau đó có thay đổi về đối tượng không chịu thuế hoặc mục đích được miễn thuế; áp dụng thuế suất, mức thuế tuyệt đối theo hạn ngạch thuế quan; hàng hóa là nguyên liệu, vật tư, linh kiện nhập khẩu để gia công, sản xuất hàng hóa xuất khẩu và hàng hóa tạm nhập tái xuất đã giải phóng hàng hoặc thông quan nhưng sau đó thay đổi mục đích sử dụng, chuyển tiêu thụ nội địa thì phải khai tờ khai hải quan mới”.
Theo đó, trường hợp doanh nghiệp chế xuất giao lại máy móc cho bên cho thuê tài chính (doanh nghiệp nội địa), hàng hóa được nhập khẩu từ khu phi thuế quan vào thị trường nội địa thì doanh nghiệp nội địa phải kê khai, nộp thuế nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng theo quy định.
Đối với trị giá tính thuế, Điều 5 Thông tư 39/2015/TT-BTC được sửa đổi, bổ sung tại khoản 9 Điều 1 Thông tư 60/2019/TT-BTC quy định trị giá hải quan đối với hàng hóa nhập khẩu là giá thực tế phải trả tính đến cửa khẩu nhập đầu tiên.
Cũng tại khoản 9 Điều 17 Thông tư 39/2015/TT-BTC được sửa đổi, bổ sung tại khoản 4 Điều 1 Thông tư 60/2019/TT-BTC quy định đối với hàng hóa nhập khẩu không có hợp đồng mua bán và không có hóa đơn thương mại, trị giá hải quan là trị giá khai báo. Trường hợp có căn cứ xác định trị giá khai báo không phù hợp thì cơ quan Hải quan xác định trị giá hải quan theo nguyên tắc và phương pháp xác định trị giá hải quan phù hợp với thực tế của hàng hóa nhập khẩu.
Đối chiếu với các quy định này, theo Tổng cục Hải quan, trường hợp doanh nghiệp cho thuê tài chính nhập khẩu hàng hóa từ doanh nghiệp chế xuất trở lại nội địa thì doanh nghiệp cho thuê tài chính tự xác định và kê khai trị giá hải quan đối với hàng hóa nhập khẩu vào thị trường nội địa tính đến địa điểm giao hàng theo thỏa thuận, phù hợp với chứng từ, tài liệu có liên quan đến hàng hóa cho thuê đó.
Trường hợp cơ quan Hải quan có căn cứ xác định trị giá khai báo của doanh nghiệp cho thuê tài chính tự xác định không phù hợp thì cơ quan Hải quan xác định trị giá hải quan theo quy định.
Liên quan đến việc hoàn thuế đã nộp, Điều 19 Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đã quy định rõ. Theo đó, đối với hàng hóa nhập khẩu trở lại nội địa, đã nộp thuế nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng nhưng doanh nghiệp cho thuê tài chính lại cho doanh nghiệp chế xuất khác thuê tài chính hoặc bán hàng hóa ra nước ngoài thì không thuộc trường hợp được hoàn thuế nhập khẩu. Tuy nhiên, doanh nghiệp được kê khai khấu trừ thuế giá trị gia tăng theo quy định của pháp luật.
Tổng cục Hải quan cho biết, thủ tục nhập khẩu hàng hóa cho thuê tài chính từ doanh nghiệp chế xuất về doanh nghiệp nội địa được hướng dẫn tại Điều 94 Thông tư 38/2015/TT-BTC được sửa đổi, bổ sung tại khoản 61 Điều 1 Thông tư 39/2018/TT-BTC. Theo đó, cả doanh nghiệp chế xuất và doanh nghiệp nội địa đều thực hiện mở tờ khai xuất nhập khẩu tại chỗ.
Ý kiến bạn đọc